Tiểu sử Ngô_Thị_Chính

Hiền phi Ngô Thị Chính là con gái của ông Ngô Văn Sở, nguyên quán ở huyện Đăng Xương, phủ Thừa Thiên, sau chuyển vào nam sinh sống ở làng Thuận Nghĩa, Gia Định[2]. Ông Sở nguyên là tướng của nhà Tây Sơn, sau theo về với chúa Nguyễn Ánh[2]. Dưới triều Tây Sơn cũng có một danh tướng là Đại tư mã Ngô Văn Sở, nhưng ông này không phải là cha của bà Hiền phi.

Năm 1799, ông Sở theo giúp Võ Tánh thủ thành Bình Định. Nguyễn Ánh diệt được Tây Sơn, lên ngôi lấy hiệu Gia Long, ông Sở được phong Chưởng Cơ làm Quản Đạo ở trấn Thanh Hóa Ngoại (tỉnh Ninh Bình sau này)[2]. Sau này, do phạm tội mà ông Sở bị cách chức rồi mất. Vợ của ông là bà Nguyễn Thị Đích, sinh được một con gái và hai con trai: bà Hiền phi là con gái đầu lòng, hai người em trai tên Thắng và Thọ[3].

Bà Chính được chọn vào hầu hoàng đế Minh Mạng khi ông còn là Thái tử nơi tiềm để. Năm 1820, vua Minh Mạng đăng cơ, phong cho bà làm Cung tần[1]. Do lúc này, chánh thất Hồ Thị Hoa (mẹ của vua Thiệu Trị) đã mất nên bà Chính là người đứng đầu hậu cung khi đó. Sau đó, bà được phong làm Hiền tần (賢嬪) thuộc hàng Tam giai. Trên bậc Tần còn có các bậc Tam phi và Tam tu nhưng đều để trống, nên Hiền tần Ngô thị là người có địa vị cao nhất trong hậu cung. Ngay cả chính thất Hồ Thị Hoa cũng chỉ được vua Minh Mạng truy tặng làm Chiêu nghi, xếp dưới cả Cửu tần.

Đến năm 1836, cấp bậc hậu cung được cải tổ, Hiền tần Ngô thị được tấn phong làm Hiền phi (賢妃) ở hàng Nhất giai, vẫn đứng đầu hậu cung. Chiêu nghi Hồ thị được tấn tặng làm Nhất giai Thần phi, tuy cùng hàng Nhất giai nhưng vẫn xếp dưới Hiền phi. Bài sách phong Hiền phi năm đó có đoạn:

“Đoái tưởng Hiền tần họ Ngô, con dòng của giống, xứng trang nghi phạm trong lục cung! Ngươi theo trẫm từ lúc tiềm để đến bây giờ hơn 30 năm khi phong tiêu, khi viện quế, khi gối phụng, khi màn loan, đỡ tráp nâng khăn, đoan trang nét ngọc, thức khuya dậy sớm, chầu chực ven màn. Càng sùng quyến chừng nào lại càng khiêm thuận chừng nấy. Vậy nên, lệ ban gia mới định, liền chiếu luật gia phong.”[3]

Năm 1822, Minh Mạng hạ chiếu phục chức Chưởng cơ cho ông Sở cha bà, và cho Thắng em bà giữ chức Cai đội[2]. Dân gian nói rằng, bà Hiền phi thường sinh sự với các bà khác vì cậy được vua yêu, khiến Minh Mạng nhiều khi lâm vào cảnh khó xử. Tuy đã hơn 40, nhưng Hiền phi vẫn hạ sinh được cho hoàng đế Minh Mạng thêm một hoàng tử là Miên Uyển, chứng tỏ bà vẫn rất được hoàng đế quý mến dù đã có tuổi.

Tương truyền, bà Hiền phi thường nói những người thân cận rằng, dù hoàng đế có yêu bà cỡ nào thì khi chết cũng chỉ có hai bàn tay không. Hoàng đế biết vậy nên khi bà mất đã thân hành đến chỗ bà nằm mà đặt vào tay 2 nén vàng, để khỏi ra đi với hai bàn tay không. Tuy nhiên, điều này lại mâu thuẫn với thế phả họ Nguyễn Phúc, vì Hiền phi Ngô thị được ghi lại là mất vào năm 1843, sau hoàng đế Minh Mạng 2 năm[4].

Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), tiên triều Hiền phi Ngô thị qua đời, hưởng thọ 52 tuổi, thụyTuệ Khiết (慧艷). Hoàng đế nghỉ chầu 3 ngày, sai quan lo liệu việc tang, cấp thêm cho 3000 quan tiền. Đền thờ của Hiền phi được dựng ở xã Phú Xuân, tẩm mộ táng tại thôn Châu Chữ (nay thuộc xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế)[1]. Chuẩn cho con trai bà là Phú Bình công Miên Áo trong 100 ngày tang hễ gặp có chương sớ của Tôn nhân phủ dâng tâu, đều cho miễn đứng tên đề.